Thứ Hai

Mạt kiếp gia long mang tội nước - Nghìn năm Nguyễn Huệ sử ghi công?

1. Hiệp ước Nhâm Tuất 5/6/1862:
Sau khi đại đồn Chí Hòa thất thủ, Pháp lần lượt chiếm các tỉnh Định Tường, Biên Hòa và Vĩnh Long. Triều đình phong kiến nhà Nguyễn rất hốt hoảng và lo sợ, vội kí với Pháp bản hiệp ước Nhâm Tuất với nội dung:

- Thừa nhận quyền cai quản của Pháp ở ba tỉnh miền Đông Nam Kì (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) và đảo Côn Lôn; mở ba cửa biển (Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên) cho Pháp vào buôn bán; cho phép người Pháp và Tây Ban Nha tự do truyền đạo Gia Tô, bãi bỏ lệnh cấm đạo trước đây; bồi thường cho Pháp một khoản chiến phí tương đương 288 vạn lạng bạc.

Mạt kiếp gia long mang tội nước - Nghìn năm Nguyễn Huệ sử ghi công
- Pháp cam kết sẽ trả lại thành Vĩnh Long cho triều đình chừng nào triều đình buộc được dân chúng ngừng kháng chiến......

Như vậy, triều đình đã chính thức đầu hàng sự xâm lược của Pháp, từ bỏ trách nhiệm tổ chức và lãnh đạo kháng chiến, thể hiện ý thức vì lợi ích riêng của triều đình phong kiến mà phản bội lợi ích dân tộc.

2. Hiệp ước Giáp Tuất 15/3/1874:
Chiến thắng của nhân dân ở Cầu Giấy khiến quân Pháp hoang mang cực độ, dân ta phấn khởi, càng hăng hái đánh giặc. Ngược lại, triều đình phong kiến nhà Nguyễn lo sợ bị Pháp quở trách nên đã vội vã kí Hiệp ước Giáp Tuất với nội dung:
- Triều đình chính thức thừa nhận 6 tỉnh Nam Kì hoàn toàn thuộc Pháp.

- Quân Pháp sẽ rút hết quân ở Bắc Kì.

Như vậy, triều đình đã hoang mang, lo vô căn cứ, dẫn đến những việc làm ngu ngốc và tội lỗi, bất chấp xương máu quân dân. Với nội dung kí kết đó, triều đình đã tiếp tục phản bội lợi ích dân tộc, lợi ích của nhân dân, tạo đà cho quân Pháp có cơ hội lấn tới trên con đường xâm lược nước ta.

3. Hiệp ước Quý Mùi:
Chiến thắng Cầu Giấy lần thứ hai làm quân Pháp thêm hoang mang dao động. Chúng đã toan bỏ chạy thì triều đình lại chủ trương thương lượng với Pháp, tạo cơ hội cho chúng có thêm viện binh, lại nhân cơ hội vua Tự Đức qua đời, triều đình nhà Nguyễn lục đục, thực dân Pháp chớp ngay lấy cơ hội và quyết định tấn công thẳng vào cửa ngõ kinh thành Huế ở cửa biển Thuận An. Ngày 20/8/1883 sau 2 ngày bắn pháo, quân Pháp đổ bộ lên Thuận An, triều đình hoảng hốt xin đình chiến. Cao ủy Pháp lên ngay Huế, đưa ra bản hiệp ước thảo sẵn, buộc triều đình chấp nhận và kí ngày 25/8/1883. Hiệp ước mang chính tên viên Cao ủy Pháp: Hiệp ước Hac - măng (còn gọi là hiệp ước Quý Mùi) với nội dung:

- Triều đình Huế Chính thức thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ở Bắc Kì và Trung Kì, cắt tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung Kì để nhập vào đất Nam Kì thuộc Pháp. Ba tỉnh Thanh_Nghệ_Tỉnh được sáp nhập vào Bắc Kì do Pháp bảo hộ. Triều đình chỉ được cai quản vùng đất Trung Kì bé tẹo còn lại (cờ vàng 3 sọc đỏ cũng chỉ được dùng ở vùng này), mọi việc vẫn đều phải thông qua viên khâm sứ Pháp ở Huế. Công sứ Pháp ở các tỉnh Bắc Kì thường xuyên kiểm soát những công việc của quan lại triều đình,nắm cá quyền trị an và nội vụ.Mọi việc giao thiệp với nước ngoài (kể cả với Trung Quốc) đều do Pháp nắm. Triều đình Huế phải rút quân đội ở Bắc Kì về Trung Kì.

Như vậy, tuy nội dung hiệp ước chỉ nói đến vai trò bảo hộ của Pháp ở Bắc Kì và Trung Kì nhưng thực chất quyền đối nội, đối ngoại của triều đình đã phụ thuộc vào Pháp và do Pháp quyết định. Thực chất hiệp ước 1883 đã chính thức chấm dứt sự tồn tại của triều đình phong kiến nhà Nguyễn với tư cách là một quốc gia độc lập. Tuy vẫn còn tồn tại trên hình thức nhưng triều đình phong kiến chỉ còn là tay sai cho Pháp.

Với hiệp ước 1883, triều đình phong kiến nhà Nguyễn không những tự mình làm mất đi sự độc lập của một chính quyền nhà nước phong kiến mà qua đó còn thể hiện sự phản bội trắng trợn của vua tôi nhà Nguyễn với lợi ích của dân tộc.

4. Hiệp ước Pa - tơ - nốt ngày 6/6/1884
Sau hiệp ước 1883, nhân dân cả nước phẫn nộ trước thái độ đầu hàng của triều Nguyễn, càng căm thù quân xâm lược Pháp nên bừng bừng đứng lên kháng chiến. Trước hoàn cảnh đó, chính quyền thực dân Pháp chủ trương làm dịu bớt tình hình căng thẳng của nhân dân và tỏ ra rộng lượng với triều đình để lấy lòng bọn tay sai nên đã dẫn đến việc kí kết hiệp ước Pa - tơ - nốt ngày 6/6/1884

Nội dung hiệp ước này chỉ sửa sang một chút Hiệp ước trước đó, trao thêm quyền hành cho vua quan nhà Nguyễn nhưng vẫn kèm theo điều kiện "sẽ bị phế bỏ, cách chức nếu các quan công sứ Pháp yêu cầu", không làm thay đổi chút nào tình hình nước ta, kẻ thù nham hiểm vẫn đô hộ nước ta, bản chất triều đình vẫn là bè lũ đầu hàng, can tâm làm tay sai cho giặc.

Chỉ cần nghiên cứu các bản hiệp ước nói trên đã quá đủ bằng chứng kết luận công lao nhà Nguyễn vĩ đại đến nhường nào, đó là còn chưa nói đến công lao rước ông gì trên giời về để dân Việt Nam quên đi lầm than đói rách...

Nguồn: Hùng Ngô Mạnh