Thứ Ba

Chủ nghĩa khủng bố và diệt chủng dân Việt Nam của Mỹ năm 1945 - 1974

Vài Lời Nói Đầu: Thật tình tôi không muốn viết về cuộc chiến ở Việt Nam, một cuộc chiến đã mang lại rất nhiều đau thương cho dân tộc Việt Nam. Nhưng có vẻ như có một số người, vì sự hiểu biết quá ít ỏi và thiếu sót về cuộc chiến cho nên vẫn tiếp tục viết về cuộc chiến, nhưng càng viết càng sai, vì họ chỉ nhìn thấy một mặt theo cái định kiến phe phái hoặc cá nhân rất hẹp hòi của họ. Họ chỉ nhìn thấy những cái xấu của “phe địch”, nhiều khi khá thiển cận và không đúng sự thật, mà không bao giờ nhìn lại những cái xấu, nhiều khi tệ hại hơn nhiều, của “phe ta”.

Họ cũng chỉ nhìn thấy những tổn hại về vật chất và tinh thần của “phe ta” mà không bao giờ quan tâm đến những tổn thất về vật chất và tinh thần lớn lao hơn nhiều của phe địch do “phe ta” gây nên. Nói theo ngôn từ trong cuốn Thánh Kinh: “Chỉ nhìn thấy cái kim trong mắt người khác mà không thấy cái đà trong mắt mình.” Đọc trên các diễn đàn thông tin, chúng ta thấy phần lớn những lý do chống Cộng là cá nhân, thí dụ như “Tôi là nạn nhân của CS, đã hai lần di cư”, hoặc “bọn CS vô thần”, hoặc qua những thông tin lố bịch, sai sự thực, thí dụ như “CS đã làm cho cả nước nghèo khổ, tụt hậu” [“sic”, không về nước mà coi xem ngày nay dân nghèo khổ và tụt hậu như thế nào so với các thời Diệm, Thiệu], hoặc “không tôn trọng nhân quyền, không có tự do, dân chủ, tự do tôn giáo v..v…” [sự thực là tự do, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo đã vượt xa các thời Diệm, Thiệu]. Đối với những người này thì Nguyễn Văn Lý chính là Công Giáo, Thích Quảng Độ chính là Phật Giáo, Phạm Hồng Sơn, Lê Thị Công Nhân chính là Dân Chủ v..v…

Chủ nghĩa khủng bố và diệt chủng dân Việt Nam của Mỹ năm 1945 - 1974
Giáo sư Stephen Vlastos ở Đại Học Iowa cũng đã phê bình về khía cạnh viết lịch sử một chiều của trường phái xét lại Mỹ như sau:

Những tác phẩm này (và nhiều tác phẩm khác) thuộc trường phái xét lại đều có một loại ngôn ngữ rõ rệt về trình bày lịch sử: đặt ra ngoài lề kinh nghiệm lịch sử của “kẻ thù” của Mỹ [nghĩa là]: nhiều triệu người Việt Nam, Bắc cũng như Nam, chống đối sự can thiệp của Mỹ. Người ta chỉ chấp nhận những điều trừu tượng như “ngoại xâm” [người Việt xâm lăng đất Việt??] và sự bành trướng của cộng sản quốc tế, còn về vấn đề người Việt Nam chống lại nỗ lực của Mỹ nhằm mục đích thống trị đời sống chính trị của người Việt Nam thì hoàn toàn “vắng mặt” trong lịch sử viết bởi phe xét lại. Thật là mỉa mai, chính sự từ chối vai trò chủ động của những “kẻ thù” Việt Nam trong lịch sử của chính họ, các nhà xét lại đã thâu tóm sự sai lầm trí thức căn bản của những người đặt kế hoạch cho chiến tranh: sự hoàn toàn thất bại trong biện pháp đối với những lực lượng lịch sử ở Việt Nam mà cuộc kháng chiến sống chết của họ sẽ đánh bại trình tự đế quốc của Mỹ cho Việt Nam thời hậu thuộc địa [the utter failure to take measure of very historical forces in Vietnam whose life and death resistance would defeat America’s imperial agenda for postcolonial Vietnam]..

Nhìn cuộc chiến ở Việt Nam đơn giản chỉ là cuộc chiến giữa lý tưởng tự do dân chủ của người Việt Quốc gia đối với lý tưởng độc tài sắt máu của người Việt Cộng sản là không hiểu gì về cuộc chiến cả. Do đó kéo dài hận thù đối với Cộng sản là một hành động vô trí, bắt nguồn từ cái nhìn rất thiển cận của mình về cuộc chiến.

Hiện nay chúng ta có rất nhiều tài liệu về cuộc chiến tranh Việt Nam vừa qua, gồm cuộc chiến chống Pháp và cuộc chiến chống Mỹ, nhiều đến độ có lẽ không bao giờ chúng ta có thể biết hết và đọc hết. Người Việt Quốc Gia thường cho Nam Việt Nam là đồng minh trước hết là của Pháp, rồi sau là của Mỹ, để chống Cộng cho họ. Nhưng sự thật khá đau lòng, trong cả hai cuộc chiến, Nam Việt Nam chỉ là tay sai, con cờ của Pháp và Mỹ. Pháp chưa bao giờ coi “thành phần quốc gia” là “đồng minh” của họ. Mỹ còn tệ hơn nữa vì là ông chủ chi tiền. Hiệp Định Geneva năm 1954 được ký kết giữa Việt Minh và Pháp. Hiệp Định Paris năm 1973 trên thực tế được ký kết giữa Bắc Việt và Mỹ, giúp cho Mỹ “rút lui trong danh dự” và xóa sổ Nam Việt Nam, theo đúng “kế hoạch mầu nhiệm” của Thiên Chúa đã được an bài để hợp với lòng dân người Việt..

Ngày nay chúng ta biết rằng Mỹ can thiệp vào Việt Nam không phải là giúp Việt Nam tranh đấu cho những giá trị tự do và dân chủ theo đúng nghĩa của tự do và dân chủ. Bản chất của hai chế độ Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu nói rõ hơn gì hết sự thật này. Mỹ can thiệp vào Việt Nam vì quan niệm chính trị và thống trị của Mỹ sau Đệ Nhị Thế Chiến, ngoài những mục đích kinh tế của giới tài phiệt.

Người Mỹ đã làm những gì ở Việt Nam để giúp Nam Việt Nam? Nhiều lắm ! Đại cương là tàn phá đất nước Việt Nam, về sinh mạng cũng như về vật chất, để cứu Nam Việt Nam. Trong khi có nhiều tác giả ngoại quốc, nhất là Mỹ, viết về sự kiện này, thì điều lạ là chúng ta không hề thấy những người hăng say chống Cộng, cho Chúa cũng như cho “lý tưởng quốc gia”, nếu chúng ta có thể gọi “chống Cộng” là “lý tưởng quốc gia”, đá động đến khía cạnh này của cuộc chiến, vậy thực ra là họ chống Cộng hay chống quốc gia Việt Nam? Người Công giáo luôn luôn viết về cái ác của Cộng sản, nhiều khi thổi phồng quá đáng, mà không bao giờ nói về những cái “ác quán mãn doanh”, “vô ác bất tác”, “hung thần ác sát” và “cùng hung cực ác” [mượn những từ của Kim Dung] v..v.. của giáo hội Công giáo trong lịch sử nhân loại. Người quốc gia cũng vậy, không bao giờ viết đến số người vô tội bị tra tấn và giết dưới thời Ngô Đình Diệm nhân danh tố Cộng và đạo luật 1959, và những hành động rất ác ôn của lãnh chúa hung thần miền Trung là Ngô Đình Cẩn v..v… Lẽ dĩ nhiên, đây không phải là chuyện so sánh ác ít hay ác nhiều, và chẳng có ai phủ nhận là trong quá khứ, Cộng sản đã có những chính sách sai lầm có thể nói là rất ác, làm thất nhân tâm, mà tôi chỉ muốn nói lên vấn đề lương tâm trí thức khi chúng ta muốn lên án những sai lầm của phe địch mà không chịu sờ lên gáy xem xa hay gần. Chúng ta chỉ có thể kết tội đối phương khi chúng ta không phạm tội như họ. Những người Công Giáo chỉ có thể tranh đấu cho tự do dân chủ khi cấu trúc thần trị của Giáo hội Công giáo cũng là một cấu trúc tự do dân chủ.

Sau đây chúng ta hãy đọc một bài ở trên Internet, intellnet.org, và đây chỉ là đại cương, phần chi tiết những sự kiện trong bài này nằm trong rất nhiều tài liệu hiện hữu, và chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem chúng ta có trách nhiệm gì về những sự kiện lịch sử này hay không.

Những tội phạm chiến tranh thuộc Thủy, Lục, Không quân Hoa Kỳ đã tàn sát 3 triệu người ở Việt Nam, trong rất nhiều nơi như Mỹ Lai. Hầu hết các nạn nhân là đàn bà và trẻ con.

CIA có ngay cả một chương trình khủng bố chính thức của quốc gia Mỹ ở Việt Nam, được biết là “Chiến Dịch Phụng Hoàng” hay “Kế Hoạch Phụng Hoàng”. [Kế hoạch Phụng Hoàng còn được biết dưới tên “Kế Hoạch Ám Sát” (Douglas Valentine, The Phoenix Program, p. 191: “Phoenix was labeled an Assassination Program”).] Qua Kế Hoạch Phụng Hoàng, nhiều trăm ngàn người đã bị tra tấn đến chết trong những “trung tâm thẩm vấn” trên khắp Nam Việt Nam. Những trung tâm tra tấn này được dựng lên bởi Mỹ rõ ràng cho mục đích đó. Phụ nữ luôn luôn bị hãm hiếp như là một phần của tra tấn trước khi bị giết. Khủng bố, hãm hiếp và giết người hàng loạt một cách đại qui mô trên khắp miền quê là chính sách của tập thể Lục Quân, Không Quân, Thủy Quân Lục Chiến, Thủy Quân Hoa Kỳ. Cuộc tàn sát ở Mỹ Lai là một chiến dịch trong Kế Hoạch Phụng Hoàng.

Chính sách diệt chủng dân Việt Nam của Mỹ có nguồn gốc từ ngay sau Đệ Nhị Thế Chiến.

Mỹ đã ủng hộ Pháp trong toan tính lấy lại quyền cai trị đẫm máu của thực dân Pháp ở Đông Nam Á.

Ngoài việc liên minh với những thế lực thực dân đàn áp dân Việt Nam, Mỹ đã thực sự phối hợp lực lượng với những kẻ đã từng cộng tác với Nhật Bản. Và ai là kẻ thù mới của Mỹ? Hồ Chí Minh và những người theo ông ta – Việt Minh – những người đã cộng tác chặt chẽ trong nỗ lực chống Nhật của Mỹ và Đồng Minh. Việt Minh còn cứu cả những phi công Mỹ bị bắn rơi thuộc Phi Đoàn 14 của Mỹ. Nhưng những điều này không đáng kể gì đối với những tên tài phiệt trong công ty Mafia nằm trong chính quyền Mỹ. Cái thủ đoạn cổ điển của Mỹ đâm sau lưng đồng minh của mình đã đặt điệu cho cơn ác mộng khủng khiếp ở Đông Nam Á trong 35 năm tới.

Hồ Chí Minh đã bị cái Công Ty Mafia trong chính quyền Mỹ phản bội vì họ đơn giản khoác cho ông ta cái nhãn hiệu “Cộng sản”.

Tuy nhiên, sự thật là từ đầu Hồ Chí Minh đã thực sự ngưỡng mộ mọi thứ cùa “Mỹ”! Trong cuộc chiến chống Nhật ông ta đã đánh giá sai lầm bản chất thật của giới tài phiệt Mỹ nắm quyền. Cũng như nhiều triệu người bị thông tin sai lạc trên thế giới, ông ta ngây thơ cho rằng Mỹ là “quán quân về dân chủ”. Rất có thể là khi đó ông ta không có cách nào để biết rõ hơn, nhưng ông ta tin vào sự tuyên truyền của Mỹ - rằng Mỹ tranh đấu cho những giá trị của con người cao hơn tư lợi liều lĩnh.

Với sự ngây thơ chính trị đáng kinh ngạc, Hồ Chí Minh đã viết nhiều lá thơ cho Tổng Thống Truman và Bộ Ngoại Giao Mỹ - yêu cầu Mỹ giúp để giải phóng dân Việt Nam ra khỏi sự thống trị của Pháp.

Ông ta cũng còn thảo một bản “Tuyên Ngôn Độc Lập Cho Việt Nam”, phỏng theo ý tưởng của Mỹ, và bắt đầu bằng những lời như sau: “ Mọi người sinh ra đều bình đẳng. Họ được đấng sáng tạo phó cho với….”

Chúng ta có thể tưởng tượng đến những trận cười ác ôn rất có thể đã vang trong những hành lang của Bộ Ngoại Giao Mỹ.

Hồ Chí Minh, và cả dân tộc Việt Nam, đã khám phá ra bản chất thật của Mỹ bằng con đường đắt giá.

“Tôi muốn nói rằng vài tháng trước ở Detroit chúng tôi có một cuộc điều tra trong đó có 150 quân nhân đã được giải ngũ trong danh dự đã làm chứng cho những tội ác chiến tranh phạm ở Đông Nam Á. Họ nói những câu chuyện của thời đó là chính họ đã hãm hiếp, cắt tai, chặt đầu, kẹp giây điện từ những bộ máy truyền tin vào nhưng cơ quan sinh dục rồi quay điện, chặt chân tay, làm nổ tan xác, bắn chơi vào các thường dân, triệt hạ cả làng theo kiểu của Thành Cát Tư Hãn, bắn trâu bò, chó, làm trò chơi, đầu độc các kho lương thực và hầu như là tàn phá toàn diện miền quê Nam Việt Nam, ngoài sự tàn phá thông thường của chiến tranh và sự tàn phá thông thường và đặc biệt của những cuộc bỏ bom trên đất nước này.”

John Kerry,

Trung Úy Thủy Quân, lãnh tụ của những cựu quân nhân Mỹ ở Việt Nam chống chiến tranh, làm chứng trước Ủy Ban Ngoại Giao của Thượng Viện năm 1971.

Những hành động tàn bạo của Quân Đội Mỹ và những kỹ thuật tra tấn của Lực Lượng Đặc Biệt:

Trong thời những chính quyền thời Kennedy và Johnson số quân sát nhân xâm lăng của quân đội Mỹ nhảy vọt từ 23000 năm 1963 lên tới 184000 năm 1966. Con số này cao nhất trong năm 1969 mà Nixon làm Tổng Thống, với 542000 binh sĩ Mỹ chiến đấu chống Việt Cộng.

Nhưng đó không phải là tất cả những gì họ đã làm.

Quá nhiều “con em của chúng ta” đã phạm phải những tội ác cuồng dâm chống nhân loại. Lính Mỹ tra tấn tù binh. Lính Mỹ hiếp người qua đường hậu môn, hãm hiếp và bạo sát đàn bà và con gái. Lính Mỹ tàn sát toàn thể đàn ông, đàn bà, trẻ con trong nhiều làng – kể cả con nít - ở nhiều, nhiều nơi như Mỹ Lai và Thanh Phong.

[Thanh Phong là cái làng mà Nguyên Thượng Nghi Sĩ Robert Kerrey (không phải là John Kerry) đã chỉ huy một toán SEALS 7 người vào tàn sát 21 người đàn ông, đàn bà và trẻ con trong làng vào tháng 2, 1969. Vào căn nhà lá đầu tiên, toán này đã cắt cổ một ông lão, vợ ông ta và 3 đứa cháu. ("Former US Senator Robert Kerrey, newly inaugurated as the president of the New School University, one of the most prestigious positions in American academia, has admitted participating in a death squad attack on a Vietnamese village [Thanh Phong] 32 years ago, in which he and six soldiers under his command killed 21 women, children and elderly men. "In the course of the nighttime assault, the American raiders [U.S. Navy SEALS] killed every Vietnamese they encountered — men, women, children. They used every weapon in their arsenal, from knives to rifles and grenades to light anti-tank weapons, expending more than 1,200 rounds of ammunition on a village where only a few dozen people lived. "...the SEALS slit the throats of an elderly man, his wife and three grandchildren in the first hut they encountered when they entered the village. The graves of these five victims, marked with a common date of death, can be seen in the village today." TCN]

Từ cuốn Rogue State: A Guide to the World’s Only Superpower của William Blum:

Lực Lượng Đặc Biệt dạy binh sĩ của mình thi hành nhiệm vụ ở Việt Nam phải dùng tra tấn như thế nào là một phần trong sự thẩm vấn.

Chiến dịch Phụng Hoàng nổi tiếng, dựng lên bởi CIA để quét sạch hạ tầng cơ sở của Việt Cộng, đã tra tấn những người bị tình nghi như sau:

· Quay điện vào các bộ phận sinh dục của nam và nữ.

· Cắm vào tai một cái đũa gỗ dài 15 cm rồi đập dần đũa vào óc cho đến khi nạn nhân chết.

· Những người bị tình nghi cũng bị ném từ trên trực thăng xuống để làm gương cho những người tình nghi quan trọng khác phải khai, tuy đây có thể coi như là sát nhân đối với nạn nhân bị ném, nhưng cũng là một hình thức tra tấn đối với những người khác.

· Vi phạm Quy Ước Geneva, Mỹ trao tù binh cho đồng minh Nam Việt Nam của họ biết rõ rằng nhưng người này sẽ bị tra tấn, viên chức Mỹ thường có mặt trong cuộc tra tấn.

Cuộc Tàn Sát Bắt Đầu Trong Sự Sốt Sắng:

Cương quyết thi hành dịch vụ diệt chủng, Không Quân Mỹ phát động chiến dịch “Rolling Thunder” tấn công dân Việt Nam năm 1964. Riêng cuộc tấn công này đã thả xuống dất nước nhỏ bé nhiều bom hơn là toàn thể số bom dùng trong Đệ Nhị Thế Chiến.

Trong 5 năm tiếp theo, nhiều trăm ngàn người dân Việt Nam, đàn ông, đàn bà, trẻ con bị nghiền nát và thiêu sống bởi những phi hành đoàn của Không Quân Mỹ. Đất nước Việt Nam phải chịu đựng 22 tấn thuốc nổ cho mỗi 1.6 km vuông. Nghĩa là 660 kg chất nổ mạnh cho mỗi người, đàn ông, đàn bà và trẻ con.

Trong 13 năm chiến tranh ác ôn của Mỹ chống dân tộc Việt Nam, tổng cộng là 8 triệu tấn bom (bom Napalm và bom chùm) và chất độc khai quang màu Cam đã thả trên đất nước – và ít ra là 3 triệu người đã bị tàn sát.

Hầu hết người Mỹ có lẽ không thể nào hiểu nổi điều này nghĩa là gì.

Chỉ những người Mỹ sống sót trong những lò thiêu tập thể người Do Thái (6 triệu), Serbian (1 triệu, và người Russian-Ukranian (20 triệu) trong Đệ Nhị Thế Chiến trong tay của người Đức hoặc người [Công Giáo] ở Croatia, hoặc những chuyện trong gia đình của thổ dân bị Mỹ tàn sát tập thể (90 triệu), hoặc dân Armenian (2 triệu), Hi Lạp (1 triệu) và dân Assyrian (nhiều trăm ngàn) trong những thập niên 1920, 1930 dưới tay của người Thổ Nhĩ Kỳ, Iraq và Kurd – chỉ những người như thế này may ra mới có thể hiểu được những gì người Đông Nam Á phải trải qua dưới bàn tay của quân lực Mỹ.

BA – TRIỆU – NGƯỜI !

Cùng với lò nướng thịt thổ dân Mỹ, lò nướng thịt người Việt Nam của Mỹ đã xếp Mỹ xuống đáy của địa ngục – cùng với những công ty nổi tiếng như Nazi của Đức, chính quyền Công Giáo Ustashi ở Croatia, quân lực Nhật Bản, quân lực Thổ Nhĩ Kỳ, những đoàn quân bạo dâm chiến thắng của Tây Ban Nha, những đoàn quân Mông Cổ, La Mã và những con quỷ diệt chủng như trên.

Đại đa số người Mỹ tuyệt đối không có một kinh nghiệm nào để so sánh với những điều trên. Nhưng đó là những điều đã xẩy ra trong thời đại của chúng ta, đối với những người trên 27 tuổi. Chỉ có những người đứng đắn, có lòng tốt, ở Mỹ là những người công khai chống sự ác ôn này. Và những người có đủ can đảm để xuống đường thì được thưởng bởi những đòn đập bởi những con heo nhơ bẩn sát nhân với máu lạnh trong FBI và vệ binh quốc gia.

Trong khi đó thì những người Mỹ ái quốc, kỳ thị chủng tộc tiếp tục sống cái gọi là đời sống “bình thường”, hoàn toàn lãnh đạm với cuộc tàn sát đẫm máu được thi hành nhân danh họ, ăn nhậu trên những miếng thịt bò tái và xem TV, chơi “golf” và đi dự những “parties” trong khi những đứa trẻ Việt Nam bị thiêu sống trong làng mạc của chúng bởi những tên phi công trời đánh của chúng ta, và vô số phụ nữ thường dân Việt Nam bị hãm hiếp tàn bạo và toàn thể các gia đình bị bắn chết bằng súng liên thanh bởi những binh sĩ trời đánh của chúng ta.

Không chỉ những con quỷ Nazi Đức mới phạm tội diệt chủng. Chính quyền ác ôn và quân lực Mỹ của chúng ta cũng phạm tội diệt chủng. Hằng triệu người. Và tuyệt đại đa số nạn nhân là người dân thường không có ai bảo vệ. [Vậy mà có tên chống Cộng ngu đến độ đòi đưa Cộng Sản ra Tòa Án Xử Tội Phạm Chiến Tranh vì vụ Tết Mậu Thân ở Huế]

Dân thường Đàn Ông . Đàn Bà. Trẻ Con.

Hãy coi câu chuyện ở Mỹ Lai như là một thí dụ về người lính Mỹ anh hùng của chúng ta khi hành sự - tàn sát trẻ con và hãm hiếp con gái Việt Nam để làm cho thế giới yên ổn cho những công ty như Coca Cola và hãng dầu Standard.

Sau cuộc tàn sát …bệnh tật và chết thêm:

Nhờ có sự kỳ thị chủng tộc kiêu căng, tự cho là công chính và không quan tâm của Mỹ mà người Việt Nam tiếp tục bị đau khổ. Năm 1985 người ta ước tính là một phần ba đất đai [Nam] Việt Nam bị nhiễm độc, vì Không Quân Mỹ đã dùng thuốc khai quang như Chất Độc Màu Cam. Điều này đã khiến cho Việt Nam nghèo nàn, đất đai bị ô nhiễm nặng và có đầy những trái bom chùm chưa nổ - và người dân bị khủng khoảng tâm lý. 30 năm chiến tranh diệt chủng được nối tiếp bởi gần 20 năm cấm vận của Mỹ. [Giáo sư Noam Chomsky cũng đã châm biếm, cho rằng Mỹ đã thắng một phần ở Việt Nam (A partial victory) vì đã thành công để lại cho Việt Nam một di sản tan hoang đất nước, khó có cơ hội phục hồi về xã hội và kinh tế… (Nhưng CS đã phục hồi được về xã hội và kinh tế, và còn tiến xa hơn trước)]

Trong những năm từ khi những binh sĩ Mỹ giết người, hãm hiếp, lực lượng SEALS [Sea, Air and Land Forces], của Thủy Quân bị đá ra khỏi Việt Nam một cách ô nhục, cái di sản ác ôn của Mỹ để lại vẫn tiếp tục có ảnh hưởng đến người dân. Chất độc Da Cam đã đưa đến nhiều vụ khuyết tật bẩm sinh trong những thế hệ người dân Việt Nam và nhiều trăm ngàn trường hợp chết về ung thư đã xẩy ra trong những người sống trong những vùng bị trải thuốc khai quang..

Những trái bom chùm chưa nổ đã tạo ra những bãi mìn không có họa đồ, làm cho mọi người sợ hãi không dám canh tác trong những cánh đồng có thể trồng trọt được và ruộng lúa. Những trái bom đó của Mỹ vẫn tiếp tục giết hại, làm chân tay tàn phế và bị tàn tật suốt đời cho nhiều ngàn trẻ con và người lớn Việt Nam.

“Tôi tin rằng nếu chúng ta đừng xía những bàn tay dơ bẩn, đẫm máu, nắm đầy đô-la vào việc của những quốc gia trong Thế Giới Thứ Ba đầy những người thất vọng, bị khai thác, thì những quốc gia này sẽ tìm ra giải pháp cho chính họ. Và nếu bất hạnh là cuộc cách mạng của những quốc gia này phải dùng đến bạo lực là vì những người có của từ chối không chịu chia sẻ với những người không có bằng phương pháp hòa bình nào, thì những gì họ chiếm được sẽ là của chính họ, không phải là của kiểu Mỹ mà họ không muốn và nhất là không muốn bị nhét xuống cổ họng bởi người Mỹ.”

Tướng David Sharp

Nguyên Chỉ Huy Trưởng Thủy Quân Lục Chiến Mỹ 1966

“Theo sự phán xét của tôi, chúng ta sẽ trở thành kẻ có tội vì là sự đe dọa lớn nhất cho nền hòa bình thế giới. Đó là một sự thực xấu xa, và người Mỹ chúng ta không thích đối diện với nó. Tôi thật không muốn nghĩ rằng một trang sử của Mỹ sẽ được viết ra liên quan đến chính sách vô pháp của chúng ta ở Đông Nam Á.”

Thượng Nghị Sĩ Wayne Morse
(Đảng dân Chủ - Oregon), 1967
“Cái tội ác lớn nhất từ sau Đệ Nhị Thế Chiến là chính sách đối ngoại của Mỹ.”

Ramsey Clark, Nguyên Chưởng Lý Mỹ dưới triều Lyndon Johnson.

Nguồn: intellnet.org/sachhiem.net